Sân bay Tân Sơn Nhất do chế độ cũ để lại từ năm 1975, chia thành hai khu vực quân sự và dân sự rõ rệt, có nhà ga dân dụng quy mô so với bấy giờ là khá lớn, công suất khoảng 1,5 triệu lượt khách/năm, với đầy đủ trang thiết bị, cơ sở kỹ thuật mặt đất, cơ sở thương mại và dịch vụ hành khách tương đối đủ, do lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam  vào tiếp quản sớm nên hầu hết các cơ sở này vẫn còn nguyên, bên cạnh đó, các trang thiết bị và cơ sở vật chất sửa chữa khôi phục và đưa vào hoạt động bình thường trong đó đáng kể là việc tập trung tiếp quản Nha kỹ thuật thuộc “Hãng hàng không Việt Nam” và “Sở khai thác không vận” thuộc Nha hàng không dân sự, khôi phục hệ thống thông tin chỉ huy, sửa chữa và ổn định lại nhà ga dân dụng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, chiếc trực thăng Mi6 do phi công Lê Đình Ký thuộc Trung đoàn không quân 916 lái, hạ cánh xuống Sân bay Tân Sơn Nhất trở thành chiếc máy bay đầu tiên sơn phù hiệu Không quân Nhân dân Việt Nam hạ cánh xuống sân bay này. Ngày 3 tháng 5 năm 1975, chiếc máy bay vận tải IL14 của Lữ đoàn 919 chở đoàn cán bộ và phương tiện kỹ thuật hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất nhằm tăng cường công tác đảm bảo kỹ thuật phục vụ các chuyến bay thường lệ đi, đến Tân Sơn Nhất.
Ngày 15 tháng 5 năm 1975, chiếc máy bay IL18 của Lữ đoàn 919 vinh dự đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng và nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước vào Sài Gòn dự lễ mừng chiến thắng. Cũng ngày 15 tháng 5 năm 1975, lực lượng tiếp quản đã khôi phục hoàn chỉnh 4 máy bay vận tải dân dụng vừa mới tiếp thu và đưa ngay những máy bay này vào hoạt động. Đường hàng không Sài Gòn – Hà Nội và ngược lại và Sài Gòn đi các địa phương ở miền Nam bắt đầu hoạt động với tần suất 5-6 lần/chuyến/ngày.
Năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 15 - 18/12 đánh dấu cột mốc lớn cho sự thay đổi toàn diện của đất nước ta. Nền kinh tế bao cấp được xóa bỏ, cơ chế quản lý kinh tế và cách thức công nghiệp hóa được đổi mới toàn diện. Ngành giao thông vận tải nói chung và ngành hàng không dân dụng Việt Nam nói riêng cũng có những bước chuyển mình mạnh mẽ, nhanh chóng nắm bắt những cơ hội của nền kinh tế thị trường, tạo ra những bước phát triển đột phá, năng động trong hội nhập kinh tế quốc tế và vươn tới các châu lục.
Trong xu thế phát triển đó, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất cũng không ngừng đầu tư các trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ sở hạ tầng, góp phần cho công tác phục vụ hành khách ngày càng văn minh, lịch sự. Sản lượng hành khách, sản lượng cất hạ cánh và vận chuyển hàng hóa liên tục tăng nhanh qua các năm, đưa Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất trở thành cảng hàng không lớn nhất cả nước, trở thành một nhân tố quan trọng thu hút đầu tư, du lịch và các hoạt động thương mại, văn hoá giữa Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng với thế giới.
Ngày 7/9/2015,  Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Đinh La Thăng đã ký Quyết định số 3193/QĐ-BGTVT về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Theo quy hoạch điều chỉnh, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất là Cảng hàng không đạt cấp 4E theo mã tiêu chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) và sân bay quân sự cấp I. 
Quy hoạch khu bay: Sử dụng 02 đường cất hạ cánh hiện hữu có khả năng tiếp nhận các loại tàu bay code E; sử dụng các đường lăn hiện hữu có khả năng tiếp nhận các loại tàu bay code E; hệ thống sân đỗ tàu bay gồm 82 vị trí đỗ tàu bay, trong đó 54 vị trị đỗ của hàng không dân dụng và 28 vị trị đỗ của hàng không lưỡng dụng; khai thác các loại máy bay: B747, B777/787, A350, A321 và tương đương.
Quy hoạch khu hàng không dân dụng: Cải tạo, mở rộng các nhà ga hành khách đạt công suất 28 triệu hành khách/năm; đầu tư nâng cấp nhà ga hàng hóa theo từng giai đoạn phù hợp với nhu cầu khai thác, công suất đến năm 2030 đạt 1 triệu tấn/năm;